Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới- Phần 4

7. Đại học quốc gia Australia

Được thành lập năm 1946, Đại học quốc gia Australia (ANU) là một trong 8 đại học lớn nhất của Australia. Tọa lạc trên một khu đất rộng 145 hecta ở thủ đô Canberra, trước đây ANU chỉ là một trường phục vụ công tác nghiên cứu của quốc gia. Trải qua một quá trình dài với sự nỗ lực của các giáo viên và các nhà quản lý, ANU ngày nay là một địa điểm lý tưởng thu hút sinh viên quốc tế đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới với điều kiện học tập lý tưởng, môi trường sống trong lành và an toàn. Với 3.600 cán bộ giảng viên, trường có hơn 13.487 sinh viên đến từ 94 quốc gia trên thế giới theo học.

Khu học xá chính của trường bao gồm hơn 200 toà nhà và nhiều khu học xá nhỏ hơn ở các vùng lân cận như khu học xá Mt Stromlo Observatory, Siding Spring Observatory, North Australia Research Unit, Kioloa.

ANU đào tạo các chuyên ngành: Nghệ thuật và Khoa học xã hội, Y tế và Khoa học sức khoẻ, Châu Á Thái Bình Dương, Kinh tế, Khoa học Kỹ thuật và Luật.

Đại học Australia xếp hạng thứ 57 trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới.

8. Đại học Sydney

SydneyUniversity Được thành lập vào năm 1850, Đại học Sydney là trường đại học đầu tiên của Úc và dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu. Đại học Sydney là thành viên của “Group of Eight key Australian teaching and research universities” – Nhóm tám trường đại học hàng đầu của Úc về nghiên cứu và giảng dạy, và được xếp hạng trong các trường đại học hàng đầu của Úc và Châu Á Thái Bình Dương. Đại học Sydney cung cấp các khóa học đa dạng và đào tạo hầu hết các ngành học của bất kỳ trường đại học nào ở Úc. Hiện trường có hơn 47.000 sinh viên, trong đó có khoảng 9.000 sinh viên quốc tế.

– Nổi tiếng trên thế giới về giảng dạy và nghiên cứu có chất lượng cao

– Những sinh viên tốt nghiệp thu hút các nhà tuyển dụng với mức lương cao

– Những người nổi tiếng đã từng học tại Đại học Sydney gồm có 4 Thủ tướng Chính phủ, 3 người đoạt giải Nobel và các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục, chính trị, thương mại và nghệ thuật.

– Đứng hàng đầu trên thế giới về dạy học mang tính hàn lâm và nghiên cứu bậc cao

– Tỷ lệ giữa số lượng sinh viên và giáo viên ở trường đạt mức xuất sắc 1/5, tốt hơn các trường đại học khác ở bang New South Wales, Victoria và Queensland

– Có số lượng sinh viên nghiên cứu lớn nhất Úc

– Liên tục đứng đầu trong bảng xếp hạng của Hội đồng Nghiên cứu Úc

Trường đào tạo hơn 430 ngành học ở bậc đại học và sau đại học bao gồm 17 khoa: Quản lý Nông nghiệp và Nguồn Tài nguyên Thiên nhiên, Kiến trúc, Nghệ thuật và Nhân văn, Nha khoa, Kinh tế và Thương mại, Giáo dục và Công tác Xã hội, Kỹ sư, Hệ thống trường công, Khoa học Sức khỏe, Luật, Y khoa, Âm nhạc, Điều dưỡng và Sản khoa, Dược, Khoa học, Thú y, Thiết kế Đồ họa.

Đại học Sydney xếp thứ 79 trong 100 trường đại học hàng đầu thế giới.

Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới- Phần 3

5. Đại học Tokyo (Nhật Bản)

Ở châu Á, Nhật Bản là quốc gia có 2 trường nằm trong 100 trường đại học đứng đầu thế giới, đó là đại học Tokyo (đứng thứ 14) và đại học Kyoto (đứng thứ 25) theo xếp hạng của tạp chí Newsweek. 

Trường Tokyo được thành lập bởi chính phủ Minh Trị vào năm 1877 với tên như hiện nay bằng cách hợp nhất các trường Tây y cũ của chính phủ. Trường đã được đổi tên thành Đại học Đế quốc (Teikoku daigaku) năm 1886, và sau đó là Đại học Đế quốc Tokyo (,Tōkyō teikoku daigaku) năm 1887 khi hệ thống đại học đế quốc của Nhật được hình thành. Đây là trường đại học quốc gia đầu tiên tại Nhật. Trường giảng dạy tất cả các môn học chủ yếu cho cả bậc dưới đại học và trên đại học và cung cấp phương tiện nghiên cứu cho các môn học này. Trường có 2.800 giáo sư, phó giáo sư và giảng viên, và khoảng 28.000 sinh viên theo học. Năm 2003, trường có 2.100 sinh viên quốc tế, 2.200 nhà nghiên cứu nước ngoài đến tham quan, khảo sát trong thời gian ngắn.

Năm 1947, sau khi Nhật thất bại ở Chiến tranh thế giới thứ hai, trường lấy lại tên ban đầu. Với sự bắt đầu của hệ thống đại học mới năm 1949, Todai sáp nhập trường trước đó là Trường trung học đệ nhất (ngày nay là Khu đại học Komaba) và cựu Trường trung học Tokyo, là trường mà từ đó chịu trách nhiệm giảng dạy sinh viên đại học năm đầu và năm hai, trong khi các khoa của campus Hông chính chịu trách nhiệm các sinh viên năm thứ 3 và thứ 4. Từ năm 2004, Đại học Tokyo đã được hợp nhất vào Liên đoàn đại học quốc gia theo sắc luật áp dụng cho các trường đại học quốc gia. Trường hiện chịu quản lý một phần của Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản.

Trong các chuyên ngành học hàn lâm được dạy ở trường, có lẽ trường này nổi danh nhất về các khoa khoa học và công nghệ. Ngoài ra, trường còn là nơi đã đào tạo nhiều chính khách nổi tiếng của Nhật Bản. Đại học Tokyo được xem là một trong những trường danh tiếng nhất, so với các trường đại học khác của Nhật như Đại học Hoàng gia , Đại học Kyoto….

Đại học Tokyo bao gồm Trường Nghệ thuật và Khoa học, 9 phân khoa và 15 trường cao học. Chín Khoa là: Luật, Y, Công nghệ, Văn học, Khoa học, Nông nghiệp, Kinh tế, Giáo dục và Dược. 11 trường cao học truyền thống là: Luật và Chính trị, Y khoa, Công nghệ, Nhân văn và Xã hội, Khoa học, Nông nghiệp và Khoa học đời sống, Kinh tế, Nghệ thuật và Khoa học, Giáo dục, Khoa học Dược, Khoa học Toán. 4 trường cao học mới thành lập trong thập niên vừa qua là: Khoa học biên giới, Nghiên cứu Thông tin giữa các ngành học thuật, Kỹ thuật và Khoa học thông tin, và Chính sách Cộng đồng.

Trường có 11 viện nghiên cứu: Viện Khoa học Y, Viện Nghiên cứu động đất, Viện Văn hóa Phương Đông, Viện Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Kỹ thuật, Viện Sử học, Viện Phân tử và Tế bào sinh học, Viện nghiên cứu Tia vũ trụ, Viện Vật lý Chất rắn, Viện Nghiên cứu Đại dương, và Trung tâm Nghiên cứu về Khoa học Kỹ thuật Tiên tiến.

Đại học Tokyo có hai loại khoa hoặc trường, chia sẻ kiến thức nhằm tạo thuận lợi cho nghiên cứu và giảng dạy. Một loại dành cho các học giả của trường gồm 18 khoa, trường. Một loại tập trung vào những mục tiêu đặc biệt dành cho học giả của cả nước Nhật gồm 4 khoa, trường. Có nhiều cơ sở nghiên cứu gắn với nhiều khoa khác nhau của trường. Tất cả các cơ sở nghiên cứu của các viện đều phối hợp chặt chẽ với các khoa hoặc trường liên hệ trong giảng dạy và giám sát hoạt động của các nghiên cứu sinh.

Trường có một hệ thống thư viện, tập trung tại Tổng thư viện, được nối mạng liên kết với 55 thư viện của các khoa, trường, viện. Có khoảng 8,1 triệu quyển sách và tạp chí trong đó có nhiều ấn bản quý hiếm. Trường có một viện Bảo tàng độc đáo, đó là một hệ thống bảo tàng đặc biệt bao gồm nhiều lĩnh vực, từ cổ sinh vật học đến nhân chủng học.

Trường có 3 địa điểm trường sở : Hongo, Komaba và Kashiwa, ngoài ra còn có những cơ sở khác tại Tokyo và nơi khác trong nước. Địa điểm chính là Hongo Bunkyoku tại Tokyo, rộng 56 hecta, nơi đây được chính phủ Nhật xem là tài sản văn hóa quan trọng của đất nước, phần lớn khoa, trường, viện đều nằm ở đây. Khu Komaba rộng 35 ha, tọa lạc tại địa khu Meguro-ku cũng tại Tokyo. Khu Kashiwa rộng 24 ha nằm ở quận Chiba, ngoại ô Tokyo.

Thành tích nổi bật của trường: Giáo sư Emeritus Masatoshi Koshiba của trường đã đoạt giải Nobel Vật lý năm 2002

6. Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc)

Đại học Thanh Hoa (Peking University) là một viện khoa học và kỹ thuật tổng hợp, được thành lập năm 1911 bằng tiền bồi thường của Mỹ. Trường đại học này được xây dựng tại Thanh Hoa lâm viên – một khu nghỉ mát thời Minh, Thanh. Hiện nay trường nằm trong số 10 trường đại học hàng đấu thế giới.

Tọa lạc tại thủ đô Bắc Kinh, trên một khung cảnh tuyệt đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại với 12 học viện với 48 khoa khác nhau đào tạo 51 chuyên ngành như Học viện kỹ thuật, học viện kiến trúc, Học viện Pháp luật, Học viện mỹ thuật, Học quản lý hành chính công, Học viện quản lý kinh tế, nhiều trung tâm nghiên cứu, khoảng 87 phòng thí nghiệm và 9 nhà máy được sử dụng để phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu. Thư viện tại đại học Thanh Hoa có 2 triệu bản sách và 3.000 tạp chí chuyên ngành nhờ có sự trao đổi hợp tác với 200 trường đại học và viện nghiên cứu nước ngoài.

Hiện tại Đại học Thanh Hoa có hơn 1300 lưu học sinh đến từ 70 quốc gia khác nhau trên thế giới.

Thanh Hoa không chỉ nổi tiếng là một trường đại học hàng đầu Trung Quốc vì một bề dầy lịch sử đào tạo chất lượng cao mà còn nổi tiếng với những cống hiến khoa học và xã hội được cả thế giới công nhận. Hướng của trường là đào tạo sinh viên một cách toàn diện về Đức – Thức – Thể – Mỹ nên cả về cơ sở vật chất đào tạo cũng như chất lượng đào tạo đều được trang bị và chuẩn bị rất chu đáo. Các ngành được lựa chọn nhiều nhất hiện nay là Khoa học công nghệ, Xây dựng, Nhân văn, Nghệ thuật, Tin học, Quản lý kinh tế và Pháp luật.

Đại học Thanh Hoa đang phát triển thành một trường tổng hợp với tốc độ đáng kinh ngạc và hiện đứng đầu trong bảng xếp hạng các trường đại học của nước này. Với truyền thống đáng tự hào trong 90 năm qua, Đại học Thanh Hoa vẫn giữ được danh tiếng và sức hấp dẫn thông qua việc thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu học thuật, đảm bảo uy tín ở trong và ngoài nước. Hiện trường có trên 7.100 nhân viên, gồm trên 900 giáo sư và 1.200 phó giáo sư. Trong số đó, có 24 người là thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc và 24 thành viên của Viện kỹ thuật Trung Quốc.

Triết lý giáo dục của đại học Thanh Hoa là ”đào tạo sinh viên toàn diện”. Trong số trên 100.000 sinh viên đã tốt nghiệp từ đại học Thanh Hoa kể từ khi thành lập, có nhiều người trở thành các học giả nổi tiếng, thương gia tài giỏi và các chính khách vĩ đại (Chu Dung Cơ, Hồ Cẩm Đào… ) được người dân Trung Quốc ghi nhớ và kính trọng. Do vậy, được nghiên cứu tại đại học Thanh Hoa là mơ ước của nhiều bạn trẻ Trung Quốc. Hiện nay, Thanh Hoa có trên 20.000 sinh viên theo học, bao gồm 12.000 sinh viên chưa tốt nghiệp, 9.000 sinh viên sau đại học.

Các chương trình đào tạo tại đại học Thanh Hoa tập trung vào việc phát triển khả năng sáng tạo, nghiên cứu và học tập cũng như thực tiễn xã hội cho sinh viên. Để mở rộng phạm vi hiểu biết cho sinh viên và tăng cường chất lượng giáo dục, đại học Thanh Hoa đã khởi động dự án đào tạo sinh viên nghiên cứu (STR). Tính tới cuối năm 2004, đã có trên 7.000 sinh viên tham gia vào hơn 3.000 dự án STR. Nhờ vậy mà khả năng sáng tạo của sinh viên đã được tăng cường đáng kể. Hàng năm đại học Thanh Hoa cũng tổ chức trại hè tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất nhằm tăng cường kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.

Với sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhà nước và đứng trước những cơ hội mới, đại học Thanh Hoa đang nỗ lực trở thành một trường đại học tầm cỡ thế giới trong thế kỷ 21.

Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới- Phần 2

3. Đại học Cambridge – cái nôi của những nhà khoa học xuất chúng

 

ĐH Cambridge (Anh), nơi đào tạo những nhà khoa học xuất chúng

Hình thành từ thế kỷ thứ XIII, năm 1209, Cambridge đã trở nên nổi tiếng trước hết bởi chính diện mạo của mình với những công trình kiến trúc đẹp trong một khung cảnh thơ mộng. Nhưng lý do quan trọng hơn và đáng tự hào hơn là bởi chất lượng giáo dục và những thành tựu khoa học của trường.

Từ trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học này của thế giới, hàng trăm năm qua đã cho ra đời rất nhiều những phát minh quan trọng, mà nhiều trong số đó mang tính lịch sử của toàn nhân loại. 

Sự nổi danh của Cambridge trong lĩnh vực khoa học được bắt đầu từ nhà bác học Isaac Newton ở thế kỷ XVII với cuốn “Những nguyên lý toán học cơ bản”. Phải 300 năm sau khi cuốn sách phát hành thì các phát minh khoa học dựa trên cơ sở các nguyên lý đó mới thực sự được khám phá. Tiếp theo Newton, rất nhiều những nhà khoa học khác đã góp phần làm nên sự vĩ đại của Cambridge như: Darwins – cuối thế kỷ XIX – với thuyết tiến hóa, J.J. Thomson khám phá ra điện tử năm 1897, Cockcroft và Walson phân chia được nguyên tử năm 1923, 1949 Maurice Wikle phát triển những thành tựu đầu tiên của kỹ thuật số, 1953 Crick và Watson giải mã được cấu trúc ADN. Và hiện nay, truyền thống đó vẫn tiếp diễn với giáo sư vũ trụ học Stephen Hawking, giáo sư tin học Roger Needham hay bác sỹ Roy Calne – một chuyên gia trong lĩnh vực cấy ghép gan.

Không dừng lại ở lĩnh vực học thuật, Cambridge đã rất nhanh chóng bắt kịp với đà phát triển của thế giới trong lĩnh vực công nghệ để làm nên “Hiện tượng Cambridge” khi biến thành phố này trở thành một trung tâm công nghệ quan trọng của Châu Âu, một “thung lũng Silicon” của nước Anh. 

Còn chất lượng giáo dục của Cambridge thì được đánh giá bởi những lớp sinh viên sau khi tốt nghiệp trở thành những người thành đạt. Ngôi trường này đã đào tạo ra rất nhiều nhà thơ, doanh nhân, nghị sĩ, Phó thủ tướng hay những chức vụ tương tự cho nước Anh và cho cả thế giới.

Có thể kể ra một vài yếu tố làm nên chất lượng của trường Cambridge đó là: giảng viên giỏi, sinh viên ưu tú; phương pháp học đi đôi với hành; và nguồn đóng góp to lớn từ các nhà tài trợ.

Sinh viên giỏi và giảng viên giỏi

Phó Hiệu trưởng trường Cambridge hiện nay – bà Alison Rechard đã trả lời câu hỏi này như sau: “đó là tham vọng to lớn thu hút và giáo dục những sinh viên có triển vọng nhất, tốt nhất ở mọi ngành; song song với tham vọng tuyển chọn những giảng viên giỏi nhất để dạy những sinh viên ưu tú trên là làm công tác nghiên cứu mọi lĩnh vực của tri thức”. 

Việc tuyển chọn những sinh viên giỏi là một truyền thống của Cambridge. Từ thế kỷ XVII khi toán học là ngành mũi nhọn của Cambridge, những cuộc thi có tên gọi “Tripos” để tuyển chọn sinh viên giỏi đã được tổ chức. Và sau đó hình thức này được áp dụng cho các ngành khác như: ngành luật dân sự năm 1816, chuyên ngành thần học năm 1843 và cho đến trước năm 1900 các cuộc thi để tuyển chọn sinh viên giỏi này đã được áp dụng cho hầu hết các chuyên ngành.

Để thu hút những sinh viên giỏi, Cambridge còn rất chú trọng đến chính sách hỗ trợ sinh viên, đặc biệt là những sinh viên nghèo. Chính sách này đã là truyền thống ở Cambridge từ thời trung cổ, nhà bác học Issaac Newton đã là một sinh viên trong diện hỗ trợ này. Như lời phát biểu của bà Phó Hiệu trưởng trường: “Khi Isaac Newton vào trường với tư cách là một sinh viên đại học, ông được hưởng hoàn toàn sự tài trợ của trường Trinity, lúc đó không ai biết rằng ông là một thiên tài”.

Học đi đôi với hành 

Chất lượng giáo dục của Cambridge còn được khẳng định bởi nguyên tắc học tập phải luôn đi đôi với nghiên cứu“. “Ở Cambridge chất lượng giảng dạy tuyệt vời và các nghiên cứu tuyệt vời luôn gắn liền với nhau”. Nguyên tắc này cộng với đầu vào sinh viên tốt, điều kiện học tập đầy đủ với thư viện, phòng thí nghiệm hiện đại bậc nhất thế giới, nên chất lượng giáo dục ở Cambridge luôn được khẳng định.

Từ năm 1993 trường còn áp dụng một phương thức đánh giá chất lượng giảng dạy (TQA) bao gồm rất nhiều tiêu chuẩn với các thang điểm khác nhau. 

Những sinh viên đại học năm cuối của Cambridge vừa được học rất chuyên sâu, vừa được hỗ trợ bởi sự chăm sóc đặc biệt của hệ thống giám sát của trường. Các nhà quản lý Cambridge tin rằng đó là cách dạy hiệu quả nhất đối với những sinh viên triển vọng và có chí tiến thủ nhất.

Một nhân tố khác làm nên sự nổi tiếng của Cambridge là cách ngôi trường này đưa tri thức của mình vào cuộc sống khi áp dụng rất hiệu quả công thức: Công nghệ hiện đại + các nhà đầu tư + các nghiên cứu hàn lâm.  

Với truyền thống về nghiên cứu học thuật, Cambridge đã thu hút được những nhà nghiên cứu hàng đầu trên thế giới hội tụ về đây, cho họ một môi trường làm việc hoàn hảo, điều kiện làm việc hết sức linh hoạt, cho phép – thậm chí khuyến khích họ làm việc cho các ngành công nghiệp. Điều này đã kết hợp được những nghiên cứu thuần tuý với ứng dụng, sự tinh túy của học thuật với thế giới thực và những kinh nghiệm thực tế.

Vì thế, Cambridge là một trường đại học có thu nhập cao khác thường từ lĩnh vực công nghiệp, điều hành một số lượng dự án nghiên cứu quan trọng liên kết với các nhà công nghiệp.

Sự đóng góp to lớn của các nhà tài trợ

Nhìn vào toàn bộ lịch sử phát triển của Cambridge, có thể thấy trường đã tận dụng rất có hiệu quả sự ủng hộ và tài trợ của các cá nhân để thúc đẩy sự phát triển và giữ vững ngôi vị của mình.

Cambridge ra đời do sự bảo trợ đầu tiên của vua Henry III. Và sau đó, trong suốt quá trình phát triển 800 năm của mình, mỗi bước tiến của Cambridge đều thấy bóng dáng của các nhà tài trợ. Như sự tài trợ của vua Henry VIII cho các giáo sư ngành thần học, tiếng Hi Lạp, Do Thái, Y học và Luật học đã tạo nên bước ngoặt trong phương pháp giảng dạy của trường. Hay Ngài Richard Fitzwilliam giúp trường xây dựng viện bảo tàng để phục vụ cho việc học tập của các sinh viên nghệ thuật, kiến trúc và khảo cổ. Nguồn tài chính từ quỹ Rockefeller đã biến thư viện của trường thành một toà nhà nguy nga bên bờ Tây của dòng sông Cam, và sau đó thư viện này còn nhiều lần được mở rộng thêm cũng vẫn nhờ những nhà tài trợ. Một trung tâm của trường đại học được xây dựng để phục vụ đời sống văn hoá, xã hội của sinh viên cao học và nhân viên của trường từ sự cung cấp tài chính của quỹ Wolfson. Và chính quỹ này cũng giúp thiết lập Văn phòng liên lạc công nghiệp của trường để phục vụ cho dự án “Hiện tượng Cambridge“ hay cũng có thể gọi là “Điều thần kỳ Cambridge”. Và còn rất nhiều, rất nhiều các nhà tài trợ khác đã đóng góp cho sự phát triển của Cambridge.  

Nhân tố thứ ba này tuy không phải là nhân tố quyết định nhưng nó cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là cơ sở để hai nhân tố trên có thể phát huy toàn bộ tính hiệu quả của nó.

Hiện tại thế giới đang ở trong kỷ nguyên của công nghệ với tốc độ thay đổi chóng mặt của thông tin, đồng thời đứng trước những thách thức vô cùng to lớn như nguy cơ thiếu hụt năng lượng, biến đổi môi trường… Điều này đặt vai trò của công tác nghiên cứu lên một tầm quan trọng hơn bao giờ hết. Với truyền thống là một trung tâm nghiên cứu nổi tiếng thế giới, Cambridge đang trong thời kỳ mở rộng lớn nhất trong lịch sử phát triển của mình để đáp ứng những đòi hỏi của thực tế, với việc nâng cấp một trung tâm khoa học công nghệ mới ở phía tây trung tâm thành phố Cambridge. Đồng thời, trường coi việc đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu mới đặc biệt là đầu tư cho con người, nỗ lực và đổi mới sự hợp tác là yếu tố sống còn cho sự phát triển của mình.

Năm 2009, Đại học Cambridge  kỷ niệm tuổi 800 của mình. Phương châm của trường là sẽ tiếp tục kế thừa những truyền thống của tám thế kỷ qua, đồng thời tiếp tục cố gắng để khẳng định mình trong hàng ngũ những trường đại học vĩ đại nhất thế giới.

4. Oxford – Đại học cổ nhất Anh Quốc, nơi đào tạo “người đứng đầu”,

ĐH đầu tư nhiều tiền cho sinh viên nhất

Oxford là đại học cổ nhất trong thế giới các nước nói tiếng Anh. Tuy không có ngày thành lập chính thức, nhưng việc giảng dạy ở đây đã được bắt đầu từ năm 1096 và phát triển rất nhanh kể từ năm 1167 khi vua Henry Đệ Nhị của Pháp cấm sinh viên Anh học tập ở Paris. Hiện tại, đại học Oxford có khoảng 17 ngàn sinh viên, 25% trong số đó là sinh viên quốc tế đến từ hơn 130 nước khác nhau trên thế giới.

 

 

                                     University of Oxford, UK

Là một trong những đại học danh giá nhất thế giới và đứng đầu ở Anh (theo xếp hạng năm 2005 của hai tờ báo nổi tiếng ‘The Times’ và ‘The Guardian’), Oxford đào tạo rất nhiều người tài giỏi thuộc tất cả các lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Hầu như không thể kể hết những người nổi tiếng đã xuất thân từ đây: 46 nhà khoa học đoạt giải Nobel (riêng Linus Pauling đoạt 2 giải), 25 thủ tướng Anh, 6 vị vua, nhiều nhà văn, nhà thơ, toán học, kinh tế… Thủ tướng Anh Tony Blair, Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Vua Abdullah của Jordan, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh, Thái tử Nhật Bản Naruhito, nhà vật lý học Stephen Hawking hay cả danh hài Rowan Atkinson (diễn viên đóng vai Mr. Bean)… đều là cựu sinh viên Oxford. 

Vì là đại học có từ thời trung cổ, hệ thống giáo dục của Oxford cũng rất khác biệt so với các đại học khác. Hệ thống dạy kèm (tutorial system) của Oxford được xem là cách giáo dục tốn kém nhất, và cũng tất nhiên là hiệu quả nhất. Mỗi sinh viên đại học ở đây đều có riêng các giáo viên kèm cặp trong các môn học, cho và chấm điểm bài tập về nhà. Riêng các sinh viên sau đại học còn có giáo viên hướng dẫn nghiên cứu. Những năm gần đây tại Anh, Oxford luôn đứng đầu trong các đại học đầu tư nhiều tiền nhất cho sinh viên của mình.

Bảo tàng công cộng cổ nhất, từ điển phổ biến nhất.

Các sinh viên của Oxford được phân vào các college, mỗi college có truyền thống riêng. ChristChurch là college nổi tiếng nhất và là nơi đào tạo ra 13 Thủ tướng Anh. Magdalen là college đẹp nhất, St John’s là college giàu nhất, hay University, Balliol và Merton là các college cổ nhất.

Do đại học Oxford đẹp và thơ mộng nên mỗi năm có vài triệu khách du lịch đến đây tham quan. Oxford cũng có nhiều bảo tàng giá trị, tiêu biểu là bảo tàng Ashmolean (thành lập năm 1683 và là bảo tàng cho công cộng đầu tiên của nước Anh), và bảo tàng khoa học tự nhiên.

Hầu như mọi sinh viên học tiếng Anh đều có hoặc đã từng một lần sử dụng quyển từ điển Oxford cho riêng mình. Đây là từ điển tiêu chuẩn tiếng Anh được sản xuất bởi Nhà xuất bản Đại học Oxford (Nhà xuất bản đại học lớn nhất thế giới) và là quyển sách gối đầu giường cho tất cả những người học ngôn ngữ này. Thư viện trung tâm của Oxford là thư viện Bodleian, một trong ba thư viện lớn nhất của Vương Quốc Anh. Tất cả sách xuất bản trong toàn quốc đều phải nộp vào đây một bản in để lưu trữ.

Đại học Oxford cũng nổi tiếng với các môn thể thao. Môn được ưa chuộng nhất có lẽ là đua thuyền. Đội tuyển đua thuyền của Oxford, gọi là The Dark Blue (Màu xanh sẫm) có nhiều vận động viên đoạt giải Olympic thế giới đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Cuộc đua thuyền hàng năm giữa Đại học Oxford và Đại học Cambridge bắt đầu từ năm 1829 là một trong những sự kiện thể thao có nhiều người xem nhất thế giới, với hơn nửa tỉ người xem truyền hình trực tiếp năm 2004.

Mỗi sinh viên của Anh chỉ có thể nộp đơn vào Oxford hoặc Cambridge

Oxford – cũng như Cambridge – thường được nghĩ là nơi dành riêng cho các sinh viên giàu có, mặc dù hai trường luôn phản đối điều này. Do số lượng nộp đơn quá lớn nên mỗi sinh viên của Anh chỉ có thể nộp vào một trong hai trường mà thôi. Được vào Oxford luôn là một niềm tự hào rất lớn của một sinh viên ở bất kỳ nước nào trên thế giới.

Giới thiệu một số trường đại học hàng đầu thế giới- Phần 1

  1. Trường Harvard (Mỹ) và các trường trực thuộc: Trường Kinh doanh Harvard, trường Luật Harvard, trường Y Harvard và trường John F. Kennedy of Government

Trường Đại học Tổng hợp Harvard được thành lập năm 1636 và là một trong những trường đại học nổi tiếng nhất thế giới bên cạnh các trường: đại học Cambridge, Oxford của Anh, Sorbonne của Pháp.

Trên 14.000 người đang làm việc ở Harvard, trong đó có hơn 9.000 cán bộ giảng dạy ở trường y và 2.000 cán bộ giảng dạy khác. Thư viện ở ĐH Harvard có trên 15 triệu đầu sách.

Ban đầu, trường chỉ có 9 sinh viên và duy nhất một thầy giáo. Trong niên khoá 2004-2005, số sinh viên của trường là 19.731 người tại 10 đơn vị học thuật chính, trong đó có hơn 12.000 nghiên cứu sinh. Ngoài ra, còn có 13.000 SV đăng ký các khoá học tại trường Harvard mở rộng.

Ngoài thu nhập do giảng dạy và các hoạt động kinh doanh khác, trường còn nhận được nhiều khoản đóng góp từ các học sinh cũ nay đã thành đạt.

Bảy tổng thống Mỹ: John Adams, John Quincy Adams, Theodore and Franklin Delano Roosevelt, Rutherford B. Hayes, John Fitzgerald Kennedy và George W. Bush đều là cử nhân của Harvard. Các cán bộ giảng dạy của trường ĐH danh tiếng này cũng đã tạo ra 40 nhà khoa học giành giải Nobel. Chi phí của mỗi sinh viên trong năm 2004-2005 là 40.000 đôla.

Mục tiêu của Harvard là cố gắng tạo ra sự hiểu biết và mở mang trí óc của SV đến với hiểu biết đó, đồng thời giúp SV tận dụng tốt nhất các cơ hội giáo dục của họ. Chính vì thế mà Harvard khuyến khích sinh viên tôn trọng các ý tưởng và sự thể hiện tự do của họ, hãnh diện với sự khám phá và khả năng suy nghĩ, theo đuổi tinh thần hợp tác và nhận trách nhiệm đối với hậu quả của những hành động cá nhân.

Sự ủng hộ mà đại học Harvard dành cho sinh viên là nền tảng để họ xây dựng tính độc lập và thói quen học tập suốt đời.

Nằm trong trường Đại học Tổng hợp Harvard có rất nhiều trường trực thuộc, trong đó phải kể tới 4 trường rất nổi tiếng sau:

  1. 1.      Trường kinh doanh Harvard (Harvard Business School)

–  Năm thành lập: 1908

–  Địa điểm: Boston, Massachusetts

–  Phương châm đào tạo: “đào tạo nên những nhà lãnh đạo làm nên sự khác biệt trên thế giới” (to educate leaders who make a difference in the world).

– 65.000 sinh viên đã tốt nghiệp của trường có rất nhiều người là lãnh đạo của những tập đoàn danh tiếng, trong đó có cả những nhà lãnh đạo của các quốc gia như trường hợp của Tổng thống Mỹ Geogre W. Bush.

– Luôn luôn đứng đầu danh sách các trường kinh doanh uy tín nhất của Mỹ (theo http://www.forbes.com).

– Các trung tâm nghiên cứu toàn cầu:

California Research Center, Palo Alto
Asia-Pacific Research Center, Hong Kong
Latin America Research Center, Buenos Aires
Japan Research Office, Tokyo
Europe Research Center, Paris

  1. 2.      Trường Luật Harvard (Harvard Law School)

– Năm thành lập: 1817.

– Hiện tại có 10 thượng nghị sĩ; 10 hạ nghị sĩ và 4 thống đốc bang của Mỹ từng học tại trường Luật Harvard. Ứng cử viên tự do Ralph Nader trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng (dành được khỏang 1% số phiếu phổ thông) cũng từng học tại trường Luật Harvard.

  1. 3.      Trường Y Harvard (Harvard Medical School)

– Năm thành lập: 1782

– Phương châm đào tạo: “tạo ra và nuôi dưỡng một cộng đồng những người sẵn sàng phục vụ và cống hiến để làm dịu đi nỗi đau của của các bệnh nhân” (create and nurture a community of the best people committed to leadership in alleviating human suffering caused by disease).

– Từ năm 1934 đến năm 1990 có 10 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard đoạt các giải Nobel về Y học. Đặc biệt, có 4 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard và một số người đồng sáng lập Tổ chức bác sĩ quốc tế ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân (International Physicians for the Prevention of Nuclear War) đã được trao giải Nobel hòa bình năm 1985.

  1. 4.      John F. Kennedy of Government

– Năm thành lập: 1936

– Phương châm đào tạo: “chuẩn bị cho một thế hệ những nhà lãnh đạo của những xã hội dân chủ; đóng góp giải pháp cho những vấn đề của cộng đồng” (preparing leaders for service to democratic societies; contributing to the solutions of public problems).

  1.         – Cùng với Trường Hành chính quốc gia Pháp (Ecole Nationale D’Administration), trường John F. Kennedy of  Government là môi trường lý tưởng để đào tạo ra những chính khách, những nhà lãnh đạo của các quốc gia trên  thế giới. Ngoài công việc đào tạo, trường còn có rất nhiều những hoạt động nghiên cứu tại 14 viện và trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới. Nhiều những công trình nghiên cứu của trường đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến các giải pháp cho những vấn đề chính trị của các quốc gia trên thế giới. Nhiều học viên đã tốt nghiệp của trường hiện đang giữ các ghế thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ và thống đốc một số bang của nước Mỹ.
  2. Đại học Stanford (Mỹ)

Đại học Stanford bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học, với tổng số sinh viên lên tới gần 10.000. Cùng nằm trong một trường lớn nhưng với nhiều trường nhỏ chuyên biệt trên một khuôn viên rộng, có thể coi đây là một “mô hình đô thị đại học” đã khá phổ biến với các trường đại học lớn ở Âu, Mỹ và một số nước phát triển ở châu Á.

Đại học Stanford.

 Đại học tổng hợp Stanford (California, Mỹ) là một trong những trường hàng đầu của Mỹ. Nằm ở 2 quận San Mateo và Santa Clara, cách thành phố San Francisco khoảng 1 tiếng đi xe, trường đại học có khuôn viên rộng lớn nhất nước Mỹ này sở hữu các rừng cây tùng bách trải dài và bờ biển Thái Bình Dương tuyệt đẹp.

Trường đại học Stanford có diện tích tổng cộng hơn 3300 hecta của bang California, trong đó 2800 hecta là tài sản của trường và không trực thuộc cơ chế quản lý hành chính của thành phố.

Đây là một quần thể bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học cùng hàng trăm viện nghiên cứu lớn nhỏ. Khuôn viên trường trải rộng trên khoảng 90km đường, có một nhà máy cấp điện với tải lượng 49 MW, 2 hệ thống cấp nước riêng, 3 đập và hồ nước, 170km đường ống dẫn nước, 1 hệ thống sưởi trung tâm, một hệ thống truyền tải điện với năng suất lớn, và một bưu điện.

Ngoài ra, Stanford còn cung cấp hoặc thuê riêng một hệ thống phòng chữa cháy, công an và nhiều dịch vụ khác. Stanford là một trong những đơn vị trường đại học sử dụng điện tiết kiệm nhất bang. Nhà máy điện của trường cung cấp toàn bộ điện cho trường và còn thừa đến 25 MW cho dân thường sử dụng.

94% sinh viên đại học, 54% sinh viên cao học và 30% giảng  viên của trường sống trong khuôn viên này. Diện tích nhà ở của giảng viên và cán bộ công nhân viên của trường bao gồm cả nhà thuê và nhà mua.

Trong khuôn viên có vườn hoa, rất nhiều thư viện, nhà thờ, và bệnh viện (thuộc trường Y)… Khuôn viên Stanford có rất nhiều cây xanh và thảm cỏ với hệ thống tưới tiêu tự động.

Khu nghiên cứu Stanford nằm trong khuôn viên trường được thành lập năm 1951 để đáp ứng nhu cầu phát triển đất công nghiệp ở gần trường học và phát triển ngành điện tử gắn với trường đào tạo kỹ sư của đại học Stanford.

Ngày nay, khu nghiên cứu bao gồm hơn 150 công ty với khoảng 23.000 chuyên viên làm việc trên các lĩnh vực điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học, và các ngành công nghệ cao khác.

Ngoài ra, còn có công ty nghiên cứu phát triển và các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ khác hoạt động trên một tổng diện tích sử dụng gần 1 triệu mét vuông.

Khu mua bán của trường Stanford nằm ở vùng phía bắc của vùng đô thị, có 5 siêu thị lớn và 140 cửa hàng bán lẻ, thu hút chừng 8 triệu khách hàng năm và có doanh thu trên 500 triệu USD năm 2003. Toàn bộ khu mua sắm này do công ty Simon Property Group, Inc cho thuê và quản lý. Đây cũng là khu trung tâm mua sắm có doanh thu trung bình trên diện tích mặt bằng cao nhất trong cả nước.

Nằm trên địa bàn của nhiều tỉnh khác nhau, trường đại học Stanford luôn coi trọng mối quan hệ với cộng đồng và có đóng góp trong mọi vấn đề lớn như phát triển kinh tế và giao thông cho vùng. Trong khu đô thị này cũng có 5 trường học khác.

Hiện tại, trong khu đô thị có hệ thống xe buýt Marguerite và các dịch vụ cung cấp phương tiện đi lại khác như cho thuê xe hơi, xe đạp… Khoảng 34% giảng viên và cán bộ của trường đi lại hàng ngày bằng phương tiện công cộng. Có 10 tuyến xe buýt của hệ thống Marguerite mở rộng cho người dân ngoài trường.

  • Viện công nghệ Massachusetts – MIT (Mỹ)

Viện công nghệ Massachusetts (MIT) là Đại học danh tiếng luôn đứng trong danh sách 10 trường Đại học hàng đầu thế giới và xếp hạng nhất trong các trường Đại học  ngành công nghệ thông tin  của Mỹ. Sang năm 2010, Viện MIT đã vươn lên đứng đầu trong bảng xếp hạng các trường đại học thế giới.

Năm 1861, Cộng đồng bang Massachussets tán thành ý kiến thành lập “Học viện kĩ thuật Massachussets” bao gồm các ngành khoa học xã hội và tự nhiên, được đệ trình bởi nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng William Barton Rogers. Đây là bước quan trọng đầu tiên mà Rogers hi vọng sẽ thành lập một học viện độc lập thúc đẩy sự tăng trưởng cho nền công nghiệp của Mỹ. Được sự đồng ý của chính phủ, Rogers đã lập nên quỹ hỗ trợ phát triển chương trình giảng dạy, đánh giá, các cơ sở vật chất. Nỗ lực của ông bị đình trệ bởi cuộc nội chiến Mỹ, và cho đến năm 1865 những lớp học đầu tiên mới được mở tại khu Mercantile trung tâm Boston.

Toà nhà đầu tiên của MIT được hoàn thành ở Boston’s Back Bay năm 1866. Các năm kế tiếp, MIT đã gây dựng được danh tiếng của mình trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tuy vẫn còn trong thời kì khó khăn về tài chính. Đã có quan điểm cho rằng MIT nên liên kết với Đại học Harvard, một đại học có nguồn tài chính dồi dào nhưng yếu hơn về khoa học công nghệ để cùng phát triển. Vào những năm 1900, một đề nghị hợp tác với Harvard được đưa ra nhưng sau đó bị hoãn lại do sự phản đối của các cựu sinh viên MIT. Năm 1916, MIT chuyển sang khu vực Cambridge hiện tại.

Trong suốt lịch sử của mình, MIT luôn tập trung vào các phát minh trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Số liệu năm 1997 cho thấy tổng thu nhập do các công ty lập nên bởi MIT đứng hàng 24 trong nền kinh tế thế giới. Năm 2001, MIT triển khai dự án Open Course Ware đưa các học liệu mở lên mạng Internet. Cùng năm đó Chủ tịch trường là Charles Vest lần đầu tiên đã công nhận rằng, học viện của ông đang có hạn chế lớn đối với các sinh viên và nhà khoa học nữ, và ông cam kết sẽ có các chính sách thích hợp để cải thiện. Tháng 8 năm 2001, Susan Hockfield, nhà thần kinh học, là phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ chủ tịch của MIT. Bà chính thức đảm nhiệm chức vụ vào ngày 6 tháng 12 năm 2004 và là chủ tịch thứ 16 của MIT.

Tạp chí Atlantic năm 2004 xếp hạng MIT như là một trong những đại học khó vào nhất tại Mỹ. Theo đánh giá của US News và World Report’s thì MIT là 1 trong 5 trường luôn được xếp hạng cao nhất, cùng với Havard, Stanford, Yale và Princeton. Năm 2005, quỹ đóng góp của MIT cho nền kinh tế là 6.7 tỷ Đôla, xếp hạng thứ 6 tại Mỹ.

MIT được tổ chức thành 5 trường gồm 26 ngành học, bao gồm:

– Trường kiến trúc và Dự án: Kiến trúc; Nghệ thuật và Khoa học truyền thông; Nghiên cứu về thành thị và dự án.

– Trường kĩ thuật: Không gian và vũ trụ; Chuyên ngành kĩ thuật sinh học; Kĩ thuật hóa học; Môi trường và dân dụng; Điện học và khoa học máy tính, Kĩ thuật hệ thống; Kĩ thuật và khoa học vật liệu; Kĩ thuật cơ khí; Kĩ thuật nguyên tử.

– Trường nhân văn, nghệ thuật và khoa học xã hội:Nhân chủng học; Nghiên cứu truyền thông có tính cạnh tranh; Kinh tế; Ngôn ngữ và văn học; Lịch sử; Nhân văn; Ngôn ngữ và triết học; Văn học; Âm nhạc và Nghệ thuật sân khấu; Khoa học chính trị; Khoa học, Kĩ thuật và Xã hội; Nghiên cứu về con người; Báo chí.

– Trường quản lý Alfred P. Sloan.

– Trường khoa học: Sinh học; Khoa học về thần kinh và nhận thức; Hóa học; Trái đất, khí quyển, Khoa học về hành tinh; Toán; Vật lý.

Khác với hầu hết các trường đại học trên thế giới, tại MIT, số lượng sinh viên sau đại học nhiều hơn bậc đại học (chiếm khoảng 60% tổng số sinh viên). Nhiều chương trình cao học được xếp trong số 10 trường Đại học hàng đầu toàn nước Mỹ. Các sinh viên sau đại học của MIT có thể làm tiến sĩ, Thạc sĩ khoa học, Thạc sĩ kỹ thuật, Thạc sĩ kiến trúc, Thạc sĩ quản trị kinh doanh…

10 BÀI HỌC VỀ KỸ NĂNG TỰ HỌC CỦA ALBERT EINSTEIN

1. THEO ĐUỔI TÍNH TÒ MÒ:

“Tôi không hề có tài năng gì cả. Tôi chỉ vô cùng tò mò.”
Điều gì gợi nên tính tò mò của bạn? Bạn có tò mò là tại sao một người thành công còn người khác lại thất bại không? Đây là nguyên nhân tại sao Einstein bỏ nhiều năm trời để nghiên cứu sự thành công. Điều gì khiến bạn tò mò nhất? Sự theo đuổi tính tò mò là bí quyết thành công của bạn đấy.

2. TÍNH KIÊN TRÌ LÀ VÔ GIÁ

“Không phải là tôi quá thông minh, chỉ là tôi nghiên cứu vấn đề lâu hơn thôi”

Nhờ kiên trì mà rùa đã thắng được thỏ. Bạn có sẵn sàng kiên trìđến cùng để đi đến mục tiêu của mình không? Người ta cho rằng giá trị của con tem chứa đựng trong khả năng dính với thứ gì đó cho đến khi nó đến được nơi cần đến. Hãy hoàn thành cuộc đua mà bạn đã bắt đầu!

3. TẬP TRUNG VÀO CÔNG VIỆC HIỆN TẠI:

“Bất cứ người đàn ông nào có thể lái xe an toàn khi đang hôn một cô gái đơn giản là vì anh ta đã không hôn nhiệt tình.”

Bạn nên nhớ rằng không ai có thể cưỡi một lúc hai con ngựa. Bạn có thể làm bất cứ điều gì nhưng không thể nào làm hết mọi việc. Hãy học cách tập trung vào công việc hiện tại, hãy chuyên tâm với những gì bạn đang làm. Năng lượng của sự tập trung là sức mạnh, là sự khác biệt giữa thành công và thất bại.

4. TRÍ TƯỞNG TƯỢNG CÒN QUAN TRỌNG HƠN CẢ KIẾN THỨC:

“Trí tưởng tượng là tất cả. Nó là sự xem trước của những gì sẽ xảy ra. Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức.”
Bạn có sử dụng trí tưởng tượng của mình mỗi ngày không? Einstein nói rằng trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức! Trí tưởng tượng giúp bạn hình dung được tương lai. Einstein nói tiếp: “Dấu hiệu thực sự của sự thông minh không phải kiến thức mà là trí tưởng tượng”. Bạn có đang tập thể dục những “cơ bắp trí tưởng tượng” hàng ngày không? Đừng để một thứ có quyền lực lớn như trí tưởng tượng ngủ yên.

5. ĐỪNG SỢ MẮC LỖI

“ Một người không bao giờ mắc lỗi sẽ không cố tìm tòi điều mới lạ.”

Đừng bao giờ sợ bị mắc lỗi. Một sai lầm không phải là thất bại. Sai lầm sẽ giúp bạn làm tốt hơn, thông minh hơn và nhanh nhạy hơn nếu như bạn biết nhận lấy sai lầm một cách đúng đắn. Nếu bạn muốn thành công, hãy nhân gấp ba những sai lầm bạn mắc phải.

6. SỐNG VỚI NGÀY HÔM NAY:

“ Tôi không bao giờ nghĩ đến tương lai vì nó sẽ mau đến thôi.”
Cách duy nhất để hiểu được tương lai là sống càng thiết thực càng tốt trong hiện tại. Bạn khôngthể ngay tức thì thay đổi ngày hôm qua hay ngày mai, vì thế điều tối quan trọng là cống hiến tất cả cố gắng cho “ngày hôm nay”. Nó là điều duy nhất có ý nghĩa, nó cũng là một thứ có một không hai.

7. SỐNG TẠO RA GIÁ TRỊ

“Đừng cố gắng để thành công, hãy cố gắng sống có giá trị.”
Đừng lãng phí thời gian để thành công, hãy dành thời gian tạo ra giá trị. Nếu bạn sống có giá trị, thành công sẽ tìm đến. Hãy khám phá những tài năng và năng khiếu mình có, học cách làm thế nào để sử dụng tài năng và năng khiếu của mình có lợi nhất cho mọi người. Lao động là vô cùng quý giá và thành công là thứ kéo bạn tuột dốc.

8. ĐỪNG TRÔNG MONG VÀO KẾT QUẢ KHÁC

“Sự điên rồ: làm hoài làm mãi một việc gì đấy và trông đợi những kết quả khác”
Bạn không thể nào làm những việc tương tự nhau mỗi ngày và trông mong các kết quả khác đến.Nói cách khác, bạn không thể cứ tập mãi một bài thể dục và trông đợi mình sẽ hoàn toàn khác đi. Để cuộc sống thay đổi, bạn phải thay đổi đến mức độ hành động và suy nghĩ của bạn thay đổi thì khi đó cuộc sống sẽ thay đổi.

9. KIẾN THỨC LÀ NHỜ VÀO KINH NGHIỆM:

“Thông tin không phải là kiến thức. Nguồn duy nhất của kiến thức chính là kinh nghiệm”
Kiến thức là nhờ vào kinh nghiệm.Bạn có thể trao đổi về công việc của mình, nhưng trao đổi chỉ cho bạn hiểu biết triết tính về nó, bạn phải bắt tay vào làm để biết xem “nó là gì”. Bài học là gì? Hãy tích lũy kinh nghiệm. Đừng giấu mình sau những thông tin nghiên cứu ấy, hãy ra ngoài và thực hiện nó và bạn sẽ có được những kinh nghiệm vô giá.

10. HIỂU RÕ LUẬT CHƠI:

“Ta phải biết luật chơi. Và sau đó ta phải chơi tốt hơn tất cả những người khác.”
Nói một cách đơn giản, có hai điều cần ghi nhớ. Điều đầu tiên là học cách chơi của trò bạn đang chơi. Nghe thì không hay lắm nhưng nó là yếu tố sống còn. Thứ hai, bạn phải chắc rằng bạn chơi tốt hơn bất cứ ai. Nếu như làm được hai điều này, thành công là của bạn đấy!

4. Quy luật Nhân quả (The Law Cause and Effect)

Mọi việc xảy ra trong cuộc sống đều bắt nguồn từ một lý do cụ thể.

Quy luật Nhân quả phát biểu rằng, mỗi kết quả trong cuộc sống của bạn đều có một nguyên nhân. Nó còn gọi là “quy luật sắt của vũ trụ”. Theo quy luật này, mọi thứ diễn ra đều có lý do, dù bạn có biết lý do đó hay không. Không có sự ngẫu nhiên nào. Chúng ta sống trong vũ trụ có kỷ luật, bị chi phối chặt chẽ bởi quy luật và sự hiểu biết này là trung tâm của các quy luật hay nguyên tắc khác.

Theo Quy luật Nhân quả, có nguyên nhân cụ thể của thành công và có nguyên nhân cụ thể cho những thất bại. Có nguyên nhân cụ thể cho sức khỏe hay đau ốm. Có nguyên nhân cụ thể cho hạnh phúc hay nỗi buồn. Nếu bạn muốn có được nhiều kết quả mà bạn mong muốn trong cuộc sống thì một việc đơn giản là tìm ra được nguyên nhân và lặp lại chúng. Nếu có một kết quả nào trong cuộc sống mà bạn không thích, bạn cần phải tìm bằng được nguyên nhân của nó và loại bỏ chúng.

Quy luật này cho rằng thành tựu, của cải, hạnh phúc, sự thịnh vượng và thành công trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh đều là hệ quả trực tiếp hay gián tiếp hoặc là kết quả của những hành động cụ thể. Điều này có nghĩa rằng bạn có thể đạt được thành quả như mong muốn nếu bạn nhận diện được mục tiêu rõ ràng. Nếu nỗ lực tìm hiểu và học hỏi sự thành công từ những người đi trước, chắc chắn bạn sẽ đạt được thành công như họ.

Quy luật này rất đơn giản, nhưng nó gây trở ngại cho đa số mọi người. Họ tiếp tục làm hay không làm các việc tạo cho họ sự buồn chán và thất vọng, và sau đó họ trách cứ những người khác hoặc xã hội vì những vấn đề của họ.

Sự điên rồ được định nghĩa là “làm những điều giống nhau theo một cách giống nhau nhưng lại hy vọng đạt được kết quả khác”. Ở mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều phạm lỗi này. Chúng ta cần đối mặt với xu hướng này một cách nghiêm túc và giải quyết nó một cách trung thực.

Người Scotlen có câu tục ngữ: “Thà thắp sáng một ngọn nến bé nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Tốt hơn chúng ta hãy ngồi xuống và phân tích cẩn thận nguyên nhân gây ra khó khăn chứ đừng thất vọng và giận dữ về chúng.

Có một câu tục ngữ nói rằng: “Gieo gió, gặp bão”. Quan điểm này của Quy luật Nhân quả được gọi là quy luật của sự gieo và gặt. Nó phát biểu rằng bạn gieo cái gì thì bạn sẽ gặt được cái đó. Và tất cả những gì bạn thu được ngày hôm nay đều là kết quả của những gì bạn đã gieo trong quá khứ. Nếu bạn hy vọng thu được một mùa vụ khác ở bất cứ lĩnh vực nào trong tương lai, thì bạn phải gieo loạt hạt khác ngay hôm nay và tất nhiên, điều này có quan hệ cơ bản với những hạt giống tâm hồn.

Thành công không đến với bạn một cách tình cờ may mắn hay như một phép nhiệm màu. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân, dù là tốt đẹp hoặc không như mong muốn, dù tích cực hoặc tiêu cực. Isaac Newton nhận định: “Bất kỳ hành động nào cũng dẫn đến một phản ứng tác động ngược lại với mức độ tương đương”. Ứng dụng quan trọng nhất của Quy luật Nhân quả, hay Quy luật Gieo và gặt, là: “Suy nghĩ là nguyên nhân và điều kiện là kết quả”. 

Suy nghĩ của bạn là nguyên nhân cơ bản cho những tình huống bạn gặp phải trong cuộc sống. Mọi thứ bạn từng trải qua đều bắt đầu bằng một kiểu suy nghĩ nào đó của bạn hay của người khác.

Mọi thứ bạn đang và sẽ trở thành là kết quả của cách bạn suy nghĩ. Nếu bạn thay đổi chất lượng suy nghĩ thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ thay đổi. Sự thay đổi trong những trải nghiệm bên ngoài của bạn sẽ kéo theo thay đổi trải nghiệm bên trong.

Bạn xây dựng toàn bộ thế giới của mình theo cách bạn suy nghĩ và đặt vấn đề về cuộc sống. Giá trị, ý nghĩa của con người, sự việc và tình huống xảy ra xung quanh đều phụ thuộc vào suy nghĩ của bạn. Chính vì vậy, khi bạn thay đổi suy nghĩ cũng có nghĩa là bạn thay đổi cuộc đời mình, đôi khi sự thay đổi này chỉ diễn ra trong thoáng chốc.

Có lẽ phát hiện vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại chính là sức mạnh tinh thần của một người có khả năng tạo ra hầu hết mọi khía cạnh trong cuộc đời họ. Thế giới bên ngoài chính là tấm gương phản chiếu thế giới trong con người bạn, nó tạo nên một triết lý vô cùng giá trị: Bạn sẽ trở thành những gì bạn thường nghĩ đến nhất.

Rõ ràng, không phải những gì xảy ra với bạn mà chính cách bạn suy nghĩ về những gì xảy ra sẽ quyết định cách phản ứng hay cảm nhận của bạn. Không phải thế giới bên ngoài quyết định điều kiện hay hoàn cảnh sống, mà chính thế giới nội tâm mới là yếu tố tạo ra hoàn cảnh cuộc đời.

Quyền tự do lớn nhất của con người là quyền được lựa chọn cuộc sống. Không ai đủ quyền năng buộc bạn phải suy nghĩ, cảm nhận hay hành động theo cách mà bạn không mong muốn. Mọi cảm xúc và cách cư xử của bạn hoàn toàn bắt nguồn từ cách bạn suy nghĩ, nhận thức về thế giới xung quanh và về những gì đang xảy ra. Tiến sĩ Martin Seligman của Đại Học Pennsylvania gọi cách phản ứng này là: “phong cách diễn giải” – cách bạn diễn đạt hay giải thích sự việc xảy ra. Phong cách diễn giải này nằm trong tầm kiểm soát của bạn và có thể đạt được thông qua quá trình học hỏi. Bạn có thể diễn giải sự việc theo cách khiến bản thân thấy vui vẻ và lạc quan thay vì tức giận và thất vọng. Bạn có thể quyết định phản ứng mang tính xây dựng và tích cực thay vì bi quan, yếm thế. Tất cả tùy thuộc vào bạn. 

Suy nghĩ và cảm xúc của con người luôn thay đổi và chịu tác động nhanh chóng bởi các sự kiện xung quanh. Ví dụ, khi nhận được một tin tốt lành, bạn lập tức có thái độ hân hoan vui vẻ, lạc quan. Ngược lại, nếu nhận được tin xấu, ngay lập tức bạn sẽ trở nên khó chịu, buồn phiền và nóng nảy, ngay cả khi đó là tin không chính xác hay sai sự thật. Như vậy, cách bạn diễn giải sự việc cho bản thân sẽ quyết định phần lớn cách phản ứng của bạn.

Các quy luật cơ bản của cuộc sống là: Quy luật Niềm tin, Quy luật Kỳ vọng, Quy luật Hấp dẫn, Quy luật Tương ứng. Chúng là những quy luật phụ bắt nguồn trực tiếp từ Quy luật Nhân quả và làm nền tảng cơ bản cho tất cả các quy luật khác, cũng như cho những gì chúng ta đang trải nghiệm. Hạnh phúc và thành công trong cuộc sống đều xuất phát từ việc bạn hiểu biết và chúng sống hài hòa với bốn quy luật này.

Tổng hợp bài viết từ Brian Tracy

1. Quy luật Hấp dẫn (The Law of Attraction)

Bạn như một thỏi nam châm hút vào cuộc sống của mình mọi con người,
mọi hoàn cảnh và mọi tình huống hài hòa với những suy nghĩ chủ đạo của bạn.

Quy luật Hấp dẫn đã xuất hiện từ thời Ai Cập cổ đại cách đây khoảng 3000 năm trước Công Nguyên và là một trong những quy luật nền tảng giải thích sự thành công và thất bại trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh. Quy luật này có sức tác động mạnh mẽ đến mọi hành động, mọi lời nói, thậm chí cả những suy nghĩ và cảm nhận của bạn.

Bạn như thỏi nam châm, hút vào cuộc sống của mình mọi con người, mọi hoàn cảnh và mọi tình huống hài hòa với những suy nghĩ chủ đạo trong bạn. Suy nghĩ của bạn như một dạng năng lượng tinh thần chuyển theo tốc độ ánh sáng. Chúng có khả năng xuyên qua bất cứ rào cản nào. Đó là lý do tại sao đôi khi bạn đang nghĩ đến một người ở rất xa và chỉ một lát sau bạn nhận được điện thoại hay thư từ người đó. Trong trường hợp này, suy nghĩ của bạn đã kết nối với người đó vào chính khoảnh khắc mà bạn nghĩ đến họ.

Những điều trong cuộc sống đã thu hút vì chính con người của bạn, và đặc biệt vì suy nghĩ của bạn. Bạn bè, gia đình, các mối qua hệ, những hoàn cảnh, các vấn đề và cơ hội của bạn đều thu hút bạn do cách nghĩ theo thói quen của bạn trong mỗi lĩnh vực.

Có một ví dụ về nguyên tắc này trong âm nhạc, được gọi là nguyên tắc sự cộng hưởng giao cảm. Nếu bạn có hai chiếc đàn piano trong một căn phòng rộng, bạn bấm nốt đô trên một chiếc đàn và sau đó bước đến chiếc đàn kia, bạn sẽ nhận thấy rằng nốt đô trên chiếc đàn kia cũng đang rung lên với cùng độ rung như chiếc đàn đầu tiên. Tương tự như vậy, bạn sẽ có xu hướng gặp và có quan hệ với những người và tình huống hài hòa với suy nghĩ và cảm giác ngự trị của chính bạn.

Khi bạn nhìn xung quanh, nhìn vào mọi mặt của cuộc sống, bạn sẽ thấy rằng toàn bộ thế giới của bạn là do chính bạn tạo ra. Và bạn càng đặt nhiều cảm xúc của mình vào một suy nghĩ, thì “độ rung” càng lớn hơn và bạn càng nhanh chóng thu hút những con người và tình huống hài hòa với suy nghĩ trong cuộc sống của bạn.

Những người thành công thu hút được nhiều người thành công và vui vẻ khác. Những người bán hàng lạc quan, yêu đời hấp dẫn được nhiều khách hàng lớn hơn. Những doanh nhân tích cực thì hấp dẫn được nguồn nhân lực, khách hàng, nhà cung cấp và các chủ ngân hàng mà họ cần để xây dựng công ty thành công.

Quy luật Hấp dẫn đang làm việc, nó là một quá trình liên tục tiếp diễn. Bạn không thể ấn nút tạm dừng, hay ngưng hẳn. Nó là một hành động kéo dài mãi mãi, cũng giống như suy nghĩ của bạn vậy.

Giống như những quy luật khác, Quy luật Hấp dẫn là trung tính. Nó có thể giúp bạn và cũng có thể làm bạn bị tổn thương. Quy luật này có thể được xem như một biến thể của Quy luật Nhân quả, hay Quy luật gieo và gặt. Đây là lý do tại sao các nhà triết học lại nói:

Gieo suy nghĩ, gặt hành động.
Gieo hành động, gặt thói quen.
Gieo thói quen, gặt tính cách.
Gieo tính cách, gặt số phận.

Bạn có thể sở hữu nhiều hơn và làm được nhiều điều hơn, bởi vì bạn có thể thay đổi con người bạn. Bạn có thể thay đổi suy nghĩ ngự trị của bạn bằng cách nghiêm túc luyện tập quy luật này. Bạn có thể rèn luyện bằng cách giữ cho suy nghĩ của bạn hướng về những gì bạn mong muốn và loại bỏ suy nghĩ về những gì bạn không muốn.

Những người chủ động sử dụng Quy luật Hấp dẫn theo hướng tích cực thường được gọi là may mắn. Đây chỉ là một cách giải thích cho lý do tại sao có quá nhiều điều tốt đẹp đến với cuộc sống của những người có mục tiêu rõ ràng và lạc quan tuyệt đối về thành công của họ.

Tổng hợp bài viết từ Brian Tracy

Quy luật chung về sự hấp dẫn, lôi cuốn

–    Mang những người cùng sở thích đến với nhau
–    Mang những người dễ thương đến với nhau
–    Mang những người sợ hãi đến với nhau

và giữ họ lại bên nhau.

Quy luật Hấp dẫn phát biểu rằng chúng ta chỉ có thể hút cùng loại năng lượng mà chúng ta phát ra về chính chúng ta. Nó dựa trên nguyên tắc vật lý lượng tử mà mọi thứ – bao gồm cả con người – phát xạ ra sức mạnh này. Trên thực tế, Vũ trụ được điền đầy bởi những rung động mà các nhà khoa học gọi là “chuỗi” năng lượng. Nó luôn vận động bên trong chúng ta, xuất phát từ chúng ta, và tất cả bao quanh chúng ta theo đúng nghĩa đen. Dù chúng ta có nhận biết được nó hay không thì mỗi chúng ta vẫn là một phần của một quá trình trao đổi và mở rộng cực lớn của lực này xảy ra trong vũ trụ từng ngày, từng giờ, từng phút.

Theo Sandra Anne Taylor

5. Quy luật Tương ứng (The Law of Correspondence)

Thế giới bên ngoài phản ánh thế giới nội tâm
và tương ứng với chiều hướng tư duy chủ đạo của bạn.

Quy luật Tương ứng là một trong những quy luật quan trọng nhất và là quy luật tóm tắt, giải thích cho nhiều quy luật khác. Đây là một quy luật đặc biệt giải thích nguồn gốc của may mắn và bất hạnh, thành công và thất bại, điều vĩ đại và thấp kém trong cuộc đời.

Thế giới bên ngoài của các mối quan hệ của bạn tương ứng với con người bên trong, nhân cách bên trong bạn. Thế giới sức khỏe bên ngoài tương ứng với thái độ tinh thần bên trong bạn. Thế giới thu nhập và thành tích tài chính bên ngoài tương ứng với những suy nghĩ và chuẩn bị bên trong bạn. Cách người khác phản ứng với bạn phản ánh thái độ và cách cư xử của bạn đối với họ.

Thế giới bên ngoài phản ánh thế giới nội tâm ở mọi khía cạnh. Bất cứ sự kiện nào xảy đến với bạn đều tương ứng với một điều gì đó trong con người bạn. Đôi khi sự tương ứng này được gọi là sự tương đương về tinh thần. Bạn cần phải nuôi dưỡng sự tương đương về mặt tinh thần với những gì bạn muốn trải nghiệm ở thế giới bên ngoài.

Có thể ví cuộc đời bạn như một chiếc gương 360°. Bất kỳ bạn nhìn nơi đâu, bạn cũng sẽ thấy hình ảnh của mình. Mở rộng hơn, những mối quan hệ sẽ phản ánh bản chất thật sự của bạn cũng như thái độ, sức khỏe và điều kiện vật chất sẽ phản ánh cách bạn tư duy.

Thế nhưng, không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận thực tế này. Hầu như tâm lý mọi người đều nghĩ rằng các vấn đề trong cuộc sống của họ là do người khác và hoàn cảnh bên ngoài gây ra. Họ muốn người khác thay đổi nhưng họ lại không muốn thay đổi chính bản thân mình.

Bạn chỉ có khả năng kiểm soát một điều duy nhất: đó chính là suy nghĩ. Và khi đã hoàn toàn kiểm soát được mọi suy nghĩ, bạn sẽ kiểm soát được những lĩnh vực khác trong cuộc sống. Hãy trở thành người kiến trúc sư hoàn hảo cho cuộc đời của bạn, bắt đầu bằng những suy nghĩ tích cực và lạc quan.

Tổng hợp bài viết từ Brian Tracy


Quy luật vĩ đại của cuộc sống

Thời cổ đại, Hermes Trismegistus nổi tiếng là một đạo sĩ vĩ đại và quyền lực bậc nhất. Nhiều thế kỷ sau khi ông qua đời, mộ ông được khai quật trước sự hiếu kỳ và mong mỏi lớn lao của nhiều người bởi họ tin rằng bí mật vĩ đại nhất của mọi thời đại sẽ được tìm thấy trong nấm mộ của vị huyền nhân này. Và sự thật đúng là như vậy. Đây là dòng chữ bí mật đó:

Trong thế nào, ngoài thế ấy; Trên thế nào, dưới thế ấy.

Nói cách khác, bất kỳ điều gì được ghi vào Tiềm thức cũng sẽ được hiện thị trên màn hình không gian. Ngoài ra, Moses, Isaiah, Chúa Jesus, Đức Phật, Zoroaster, Lão Tử và tất cả những nhà tiên tri được khai sáng thuộc mọi thời đại cũng đã khẳng định những chân lý tương tự.

Bất luận điều gì được ý thức của bạn cho là đúng, tiềm thức sẽ thừa nhận và khiến điều đó xảy ra. Bất luận điều gì bạn cảm thấy một cách chủ quan là thật đều sẽ được biểu lộ thành những hoàn cảnh, kinh nghiệm và biến cố. Hành động và cảm xúc phải cân bằng. Trên trời (tâm thức của bạn) thế nào, thì dưới đất (cơ thể và môi trường) thế ấy. Đây là quy luật vĩ đại của cuộc sống.

Qua tự nhiên, bạn sẽ tìm thấy quy luật của hành động và phản ứng, của ngưng nghỉ và vận động. Phải luôn cân bằng hai điều này. Bạn tồn tại trên đời để dòng nguyên lý cuộc sống lưu chuyển qua bạn một cách nhịp nhàng và hài hòa. Lượng vào và ra phải tương đương. Những gì được ghi khắc và biểu lộ hải như nhau. Cần nhớ rằng, bạn cảm thấy chán nản hay thất vọng là do những mong mỏi của bạn không thành hiện thực.

Nếu bạn suy nghĩ một cách tiêu cực và ác ý, những ý nghĩ này sẽ sản sinh các cảm xúc mang tính phá hoại – chính là những điều cần được biểu lộ và thoát ra bên ngoài, thường là dưới dạng ung loét, rối loạn, căng thẳng và lo lắng.

Hiện tại, bạn nghĩ gì và cảm nhận thế nào về bản thân mình? Những ý niệm đó chắc chắn sẽ được mọi phần trong cơ thể bạn biểu lộ rõ ràng. Khí lực, thân thể, tình hình tài chính, bạn bè và địa vị xã hội của bạn chính là sự phản ánh hoàn hảo về ý niệm của bạn đối với chính mình.

Đây là ý nghĩa đích thực của khái niệm những gì được ghi khắc trong tiềm thức sẽ được biểu lộ trong mọi phương diện cuộc sống của bạn.

Chúng ta thường tự làm hại mình bằng những suy nghĩ tiêu cực vô căn cứ. Bạn có thường gây tổn thương chính mình bởi những cảm xúc giận dữ, sợ hãi, đố kỵ hoặc căm thù không? Những cảm xúc tiêu cực đó chẳng khác nào chất độc ngấm dần vào tiềm thức của bạn. Hãy nuôi dưỡng tiềm thức bằng những suy nghĩ tràn đầy sức sống, rồi bạn sẽ quét sạch được những mô hình tiêu cực chiếm cứ trong đó. Nếu thường xuyên và liên tục làm được điều này, mọi ấn tượng xấu xa thuộc về quá khứ sẽ bị xóa sạch và không thể tác động gì đến bạn.

Thế giới này ngày càng hỗn độn, nhiều đau khổ, tai ương và bất hạnh là do có quá nhiều người không hiểu được sự tương tác giữa ý thức và tiềm thức. Khi hai yếu tố cơ bản này hòa hợp, tương ứng và đồng bộ với nhau, bạn sẽ khỏe mạnh, hạnh phúc, an bình và vui vẻ.

Theo Joseph Murphy


Trong sao, ngoài vậy. Trên sao, dưới vậy.

Nếu bạn muốn trở nên giàu có ở bên ngoài, trước tiên hãy giàu có từ bên trong đã.

Đầu tiên bạn phải trở nên giàu có bên trong suy nghĩ của bạn. Sau đó bạn sẽ trở nên giàu có với những thể hiện của bạn dựa trên suy nghĩ đó. Bạn phải có một thái độ tích cực, bạn phải có một suy nghĩ tích cực, phóng khoáng về con người mình, và những điều có thể xảy đến với bạn. Khi bạn có được những suy nghĩ đó, nó sẽ hiện diện xung quanh bạn.

Để có mối quan hệ tốt thì bạn phải là người mà bạn đang tìm kiếm. Bất cứ khi nào bạn đi ra ngoài và tìm kiếm. Hãy là người đó. Ví dụ như, để kiếm được ai đó dễ thương, tốt bụng, nhân hậu, hào phóng… thì bạn cũng phải dễ thương, tốt bụng, nhân hậu và hào phóng.

Bất cứ thứ gì bạn muốn, bạn phải tự tin và bày tỏ mọi thứ tới tận vũ trụ. Vì mỗi khi bạn bộc lộ ra ngoài, thì những gì bạn nhận lại sẽ được nhân lên.

Theo Jack Canfield

3. Quy luật Niềm tin (The Law of Belief)

Những gì bạn thực sự tin tưởng bằng tất cả cảm xúc sẽ trở thành hiện thực.

Quy luật Niềm tin phát biểu rằng, bất cứ điều gì bạn tin tưởng chân thành, nó sẽ trở thành hiện thực. Bạn càng có niềm tin mãnh liệt là một điều gì đó sẽ trở thành hiện thực thì điều đó càng dễ trở thành hiện thực. Thật sự tin tưởng vào một điều gì đó nghĩa là bạn không thể tưởng tượng được nó sẽ trở thành một cái gì đó khác.

Niềm tin chính là bộ lọc lựa chọn thông tin và chỉ lối cho mọi hành động. Bạn không nhất thiết phải tin những gì mình thấy, nhưng bạn thường có xu hướng thấy những gì bạn đã tin. Bạn cũng thường loại bỏ những thông tin trái ngược với những gì bạn đã tin tưởng mà không xem xét liệu niềm tin và thành kiến của bạn có dựa trên sự thật khách quan hay chỉ là cảm nhận chủ quan.

Ví dụ, nếu bạn tin tưởng tuyệt đối rằng bạn sẽ đạt được thành công lớn trong cuộc sống, sau đó dù điều gì xảy ra cũng không quan trọng, bạn sẽ tiếp tục tập trung vào mục tiêu của bạn. Không gì có thể ngăn cản bạn được.

Mặt khác, nếu bạn tin tưởng rằng thành công là do may mắn hay tình cờ, thì bạn sẽ dễ dàng trở nên chán nản và thất vọng khi mọi việc không diễn ra như bạn mong muốn. Niềm tin của bạn sẽ quyết định việc bạn thành công hay thất bại.

Nhìn chung, mọi người có một trong hai thế giới quan. Một là thế giới quan tích cực. nếu bạn có quan điểm thế giới nhân đạo thì nói chung, bạn tin tưởng rằng thế giới là một nơi tốt đẹp hiền hòa. Bạn có xu hướng quan sát những điều tốt đẹp trong mỗi con người, mỗi hoàn cảnh và tin tưởng rằng có rất nhiều cơ hội xung quanh bạn. Bạn tin tưởng vào tương lai, vào bản thân và người khác. Về cơ bản, bạn có thái độ lạc quan.

Hai là thế giới quan tiêu cực. Một người có thế giới quan tiêu cực về cơ bản là bị động và có thái độ bi quan đối với chính bản thân họ và cuộc sống. Người đó tin rằng: “Những người giàu sẽ ngày càng giàu hơn, những người nghèo sẽ ngày càng nghèo đi”và, cho dù bạn có làm việc chăm chỉ như thế nào thì bạn cũng vẫn không thể phát triển.

Kiểu người này chỉ nhìn thấy sự bất công, áp bức và bất hạnh ở khắp nơi. Khi những điều không hay xảy ra với họ, như vẫn thường thế, họ đổ lỗi cho sự kém may mắn và cho người khác. Họ nghĩ mình là nạn nhân. Vì thái độ này mà họ không thật sự yêu quý hay tôn trọng bản thân họ.

Những người có thái độ lạc quan thường hoạt bát, vui vẻ. Với họ, thế giới là một vùng đất tốt đẹp, tươi sáng.

Tuy nhiên, chướng ngại tinh thần lớn nhất mà bạn phải vượt qua là những thứ còn chứa trong niềm tin của bạn. Chúng hạn chế bạn trên một số mặt. Chúng kéo bạn trở lại bằng cách ngăn chặn sự cố gắng của bạn. Chúng thường xuyên làm bạn chứng kiến những điều không có thật.

Thành kiến nghĩa là vội vàng đánh giá, đi đến kết luận trái ngược với bất kỳ thông tin nào, hoặc thậm chí bất chấp thông tin. Để thành công, bạn cần thiết biết kiềm chế việc đánh giá con người hay hoàn cảnh cho đến khi có đầy đủ thông tin. Quan trọng hơn hết, bạn phải kiềm chế vội vàng xét đoán bản thân cũng như những suy nghĩ có tính chất “thu hẹp”. Điều này thường xảy ra khi bạn nghĩ rằng mình kém cỏi, không có năng lực, không giỏi giang như những người khác cũng chính là lúc bạn đang để bản thân rơi vào cái bẫy thông thường là tự chấp nhận những mục tiêu thấp hơn rất nhiều so với khả năng thực tế của mình.

Bạn có thể cảm nhận rằng mình không thông minh lắm bởi lực học ở trường của bạn chỉ đạt mức trung bình. Bạn tin rằng bạn thiếu khả năng sáng tạo, hoặc trong khả năng học và ghi nhớ. Bạn cảm thấy mình chưa thật sự thân thiện, luôn lo lắng về tiền bạc. Một số người cảm thấy không thể giảm cân, bỏ thuốc hay thích người khác giới.

Việc “thu hẹp bản thân” này cũng giống như những chiếc phanh kìm hãm tiềm năng và tạo ra hai kẻ thù lớn nhất cho sự thành công: sự hoài nghi và sợ hãi. Chúng làm bạn ngại đón nhận sự mạo hiểm có tính thử thách, vốn rất cần thiết để bạn thể hiện đúng năng lực của mình. Vì vậy, bạn cần phải kiên quyết loại bỏ bất kỳ suy nghĩ hay ý kiến “thu hẹp” nào và trong mọi trường hợp, hãy tin rằng những gì người khác làm được thì bạn cũng làm được.

Sự thật là không ai tài giỏi hơn hay thông minh hơn bạn. Nếu có, phần lớn đó là những người biết cách phát triển khả năng và tài năng thiên bẩm của mình nhiều hơn bạn mà thôi. Họ đã tìm hiểu Quy luật Nhân quả và sớm áp dụng vào cuộc sống cũng như công việc. Trong phạm vi nhất định, bạn cũng có thể làm được bất kỳ điều gì mà những người đó đã làm, chỉ cần bạn có lòng nhiệt thành và sự ham học hỏi.

Nhưng dù bạn tin vào điều gì, nếu niềm tin đó mãnh liệt, nó sẽ trở thành hiện thực. Thậm chí, nếu niềm tin của bạn là sai, nhưng nếu bạn tin tưởng vào những điều đó thì chúng cũng có thể trở thành hiện thực.

Đa số niềm tin tự giới hạn của bạn hoàn toàn không đúng. Chúng dựa trên cơ sở thông tin bị động mà bạn đã tin và chấp nhận như là sự thật. Và khi bạn chấp nhận, niềm tin của bạn sẽ biến nó trở thành hiện thực. Giống như Henry Ford đã nói: “Dù bạn tin rằng bạn có thể, hoặc bạn tin bằng bạn không thể, thì bạn vẫn luôn đúng”. 

Tổng hợp bài viết từ Brian Tracy

2. Quy luật Kỳ vọng (The Law of Expectations)

 

Những gì bạn mong đợi với tất cả sự tự tin

sẽ trở thành lời tiên tri hoàn thành ước nguyện của riêng bạn.

Khi bạn suy nghĩ và diễn đạt về các sự kiện sẽ xảy đến cho bản thân cũng là lúc bạn hành động như một nhà tiên tri dự đoán cuộc đời mình. Nói cách khác, những gì bạn đạt được không nhất thiết phải là thứ bạn muốn có trong cuộc sống nhưng phải là thứ bạn mong đợi. Sự mong đợi của bạn có ảnh hưởng mạnh mẽ, vô hình khiến con người cư xử và tạo ra các tình huống như bạn đã dự đoán trước.

Những người thành đạt đều tự tin, hy vọng và chủ động. Họ mong muốn được thành công, được mọi người yêu quý, được hạnh phúc và họ hiếm khi bị thất vọng.

Những người không thành công thường có thái độ tiêu cực, chỉ trích và bi quan và bằng cách này hay cách khác, thái độ này sẽ dẫn đến những tình huống làm chấm dứt ngay những gì mà họ mong muốn.

Khi bạn tự tin mong đợi những điều tốt đẹp thì những điều tốt đẹp thường đến với bạn. Khi bạn nghĩ về một điều tiêu cực xảy ra, bạn sẽ phải đón nhận điều tiêu cực đó. Hơn nữa, những kỳ vọng của bạn cũng có tác động nhất định đến những người xung quanh. Những gì bạn mong đợi từ con người và tình huống quyết định thái độ của bạn nhiều hơn bất kỳ yếu tố nào khác và mọi người như tấm gương phản chiếu thái độ của bạn ngay sau đó, bất kể là thái độ tích cực hay tiêu cực.

Trong nhiều năm liền, tiến sĩ Robert Rosenthal của Đại Học Harvard đã tiến hành các thí nghiệm có kiểm soát để thử nghiệm khả năng kỳ vọng của giáo viên đối với việc học tập của sinh viên. Trong cuốn sách tâm đắc của mình – Pygmalion in the Classroom – ông kể nhiều trường hợp trong đó các giáo viên khi mới nhận lớp đã được nhà trường thông báo rằng lớp họ phụ trách có một hoặc nhiều sinh viên vô cùng thông mình, hy vọng sẽ tạo ra những bước đột phá về thành tích học tập trong năm tới. Cho dù những sinh viên này được chọn ngẫu nhiên từ số đông sinh viên của toàn trường, nhưng khi các giáo viên đặt nhiều kỳ vọng, các em đã nỗ lực học tập và đạt kết quả cao hơn so với các sinh viên khác cùng lớp và cao hơn rất nhiều so với thành tích các năm học trước đây của mình.

Sự kỳ vọng của bạn tương ứng với mức độ tôn trọng của bạn và giá trị của người đó. Bạn càng tôn trọng người khác bao nhiêu thì người đó càng có ảnh hưởng đến những kỳ vọng của bạn bấy nhiêu. 

Bạn không bao giờ đạt được cao hơn những gì bạn kỳ vọng ở bản thân. Vì chúng hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của bạn nên hãy chắc chắn rằng những kỳ vọng đó là phù hợp với mong muốn của bạn. Hãy luôn luôn kỳ vọng vào những điều tốt đẹp nhất về bản thân mình. Chỉ riêng sức mạnh của những kỳ vọng tích cực cũng có thể làm thay đổi toàn bộ nhân cách và cuộc sống của bạn. 

Tổng hợp bài viết từ Brian Tracy