- Trường Harvard (Mỹ) và các trường trực thuộc: Trường Kinh doanh Harvard, trường Luật Harvard, trường Y Harvard và trường John F. Kennedy of Government
Trường Đại học Tổng hợp Harvard được thành lập năm 1636 và là một trong những trường đại học nổi tiếng nhất thế giới bên cạnh các trường: đại học Cambridge, Oxford của Anh, Sorbonne của Pháp.
Trên 14.000 người đang làm việc ở Harvard, trong đó có hơn 9.000 cán bộ giảng dạy ở trường y và 2.000 cán bộ giảng dạy khác. Thư viện ở ĐH Harvard có trên 15 triệu đầu sách.
Ban đầu, trường chỉ có 9 sinh viên và duy nhất một thầy giáo. Trong niên khoá 2004-2005, số sinh viên của trường là 19.731 người tại 10 đơn vị học thuật chính, trong đó có hơn 12.000 nghiên cứu sinh. Ngoài ra, còn có 13.000 SV đăng ký các khoá học tại trường Harvard mở rộng.
Ngoài thu nhập do giảng dạy và các hoạt động kinh doanh khác, trường còn nhận được nhiều khoản đóng góp từ các học sinh cũ nay đã thành đạt.
Bảy tổng thống Mỹ: John Adams, John Quincy Adams, Theodore and Franklin Delano Roosevelt, Rutherford B. Hayes, John Fitzgerald Kennedy và George W. Bush đều là cử nhân của Harvard. Các cán bộ giảng dạy của trường ĐH danh tiếng này cũng đã tạo ra 40 nhà khoa học giành giải Nobel. Chi phí của mỗi sinh viên trong năm 2004-2005 là 40.000 đôla.
Mục tiêu của Harvard là cố gắng tạo ra sự hiểu biết và mở mang trí óc của SV đến với hiểu biết đó, đồng thời giúp SV tận dụng tốt nhất các cơ hội giáo dục của họ. Chính vì thế mà Harvard khuyến khích sinh viên tôn trọng các ý tưởng và sự thể hiện tự do của họ, hãnh diện với sự khám phá và khả năng suy nghĩ, theo đuổi tinh thần hợp tác và nhận trách nhiệm đối với hậu quả của những hành động cá nhân.
Sự ủng hộ mà đại học Harvard dành cho sinh viên là nền tảng để họ xây dựng tính độc lập và thói quen học tập suốt đời.
Nằm trong trường Đại học Tổng hợp Harvard có rất nhiều trường trực thuộc, trong đó phải kể tới 4 trường rất nổi tiếng sau:
- 1. Trường kinh doanh Harvard (Harvard Business School)
– Năm thành lập: 1908
– Địa điểm: Boston, Massachusetts
– Phương châm đào tạo: “đào tạo nên những nhà lãnh đạo làm nên sự khác biệt trên thế giới” (to educate leaders who make a difference in the world).
– 65.000 sinh viên đã tốt nghiệp của trường có rất nhiều người là lãnh đạo của những tập đoàn danh tiếng, trong đó có cả những nhà lãnh đạo của các quốc gia như trường hợp của Tổng thống Mỹ Geogre W. Bush.
– Luôn luôn đứng đầu danh sách các trường kinh doanh uy tín nhất của Mỹ (theo http://www.forbes.com).
– Các trung tâm nghiên cứu toàn cầu:
California Research Center, Palo Alto
Asia-Pacific Research Center, Hong Kong
Latin America Research Center, Buenos Aires
Japan Research Office, Tokyo
Europe Research Center, Paris
- 2. Trường Luật Harvard (Harvard Law School)
– Năm thành lập: 1817.
– Hiện tại có 10 thượng nghị sĩ; 10 hạ nghị sĩ và 4 thống đốc bang của Mỹ từng học tại trường Luật Harvard. Ứng cử viên tự do Ralph Nader trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng (dành được khỏang 1% số phiếu phổ thông) cũng từng học tại trường Luật Harvard.
- 3. Trường Y Harvard (Harvard Medical School)
– Năm thành lập: 1782
– Phương châm đào tạo: “tạo ra và nuôi dưỡng một cộng đồng những người sẵn sàng phục vụ và cống hiến để làm dịu đi nỗi đau của của các bệnh nhân” (create and nurture a community of the best people committed to leadership in alleviating human suffering caused by disease).
– Từ năm 1934 đến năm 1990 có 10 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard đoạt các giải Nobel về Y học. Đặc biệt, có 4 nhà nghiên cứu thuộc trường Y Harvard và một số người đồng sáng lập Tổ chức bác sĩ quốc tế ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân (International Physicians for the Prevention of Nuclear War) đã được trao giải Nobel hòa bình năm 1985.
- 4. John F. Kennedy of Government
– Năm thành lập: 1936
– Phương châm đào tạo: “chuẩn bị cho một thế hệ những nhà lãnh đạo của những xã hội dân chủ; đóng góp giải pháp cho những vấn đề của cộng đồng” (preparing leaders for service to democratic societies; contributing to the solutions of public problems).
- – Cùng với Trường Hành chính quốc gia Pháp (Ecole Nationale D’Administration), trường John F. Kennedy of Government là môi trường lý tưởng để đào tạo ra những chính khách, những nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới. Ngoài công việc đào tạo, trường còn có rất nhiều những hoạt động nghiên cứu tại 14 viện và trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới. Nhiều những công trình nghiên cứu của trường đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến các giải pháp cho những vấn đề chính trị của các quốc gia trên thế giới. Nhiều học viên đã tốt nghiệp của trường hiện đang giữ các ghế thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ và thống đốc một số bang của nước Mỹ.
- Đại học Stanford (Mỹ)
Đại học Stanford bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học, với tổng số sinh viên lên tới gần 10.000. Cùng nằm trong một trường lớn nhưng với nhiều trường nhỏ chuyên biệt trên một khuôn viên rộng, có thể coi đây là một “mô hình đô thị đại học” đã khá phổ biến với các trường đại học lớn ở Âu, Mỹ và một số nước phát triển ở châu Á.
Đại học tổng hợp Stanford (California, Mỹ) là một trong những trường hàng đầu của Mỹ. Nằm ở 2 quận San Mateo và Santa Clara, cách thành phố San Francisco khoảng 1 tiếng đi xe, trường đại học có khuôn viên rộng lớn nhất nước Mỹ này sở hữu các rừng cây tùng bách trải dài và bờ biển Thái Bình Dương tuyệt đẹp.
Trường đại học Stanford có diện tích tổng cộng hơn 3300 hecta của bang California, trong đó 2800 hecta là tài sản của trường và không trực thuộc cơ chế quản lý hành chính của thành phố.
Đây là một quần thể bao gồm 1 trường đại học và 7 trường cao học cùng hàng trăm viện nghiên cứu lớn nhỏ. Khuôn viên trường trải rộng trên khoảng 90km đường, có một nhà máy cấp điện với tải lượng 49 MW, 2 hệ thống cấp nước riêng, 3 đập và hồ nước, 170km đường ống dẫn nước, 1 hệ thống sưởi trung tâm, một hệ thống truyền tải điện với năng suất lớn, và một bưu điện.
Ngoài ra, Stanford còn cung cấp hoặc thuê riêng một hệ thống phòng chữa cháy, công an và nhiều dịch vụ khác. Stanford là một trong những đơn vị trường đại học sử dụng điện tiết kiệm nhất bang. Nhà máy điện của trường cung cấp toàn bộ điện cho trường và còn thừa đến 25 MW cho dân thường sử dụng.
94% sinh viên đại học, 54% sinh viên cao học và 30% giảng viên của trường sống trong khuôn viên này. Diện tích nhà ở của giảng viên và cán bộ công nhân viên của trường bao gồm cả nhà thuê và nhà mua.
Trong khuôn viên có vườn hoa, rất nhiều thư viện, nhà thờ, và bệnh viện (thuộc trường Y)… Khuôn viên Stanford có rất nhiều cây xanh và thảm cỏ với hệ thống tưới tiêu tự động.
Khu nghiên cứu Stanford nằm trong khuôn viên trường được thành lập năm 1951 để đáp ứng nhu cầu phát triển đất công nghiệp ở gần trường học và phát triển ngành điện tử gắn với trường đào tạo kỹ sư của đại học Stanford.
Ngày nay, khu nghiên cứu bao gồm hơn 150 công ty với khoảng 23.000 chuyên viên làm việc trên các lĩnh vực điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học, và các ngành công nghệ cao khác.
Ngoài ra, còn có công ty nghiên cứu phát triển và các công ty cung cấp dịch vụ hỗ trợ khác hoạt động trên một tổng diện tích sử dụng gần 1 triệu mét vuông.
Khu mua bán của trường Stanford nằm ở vùng phía bắc của vùng đô thị, có 5 siêu thị lớn và 140 cửa hàng bán lẻ, thu hút chừng 8 triệu khách hàng năm và có doanh thu trên 500 triệu USD năm 2003. Toàn bộ khu mua sắm này do công ty Simon Property Group, Inc cho thuê và quản lý. Đây cũng là khu trung tâm mua sắm có doanh thu trung bình trên diện tích mặt bằng cao nhất trong cả nước.
Nằm trên địa bàn của nhiều tỉnh khác nhau, trường đại học Stanford luôn coi trọng mối quan hệ với cộng đồng và có đóng góp trong mọi vấn đề lớn như phát triển kinh tế và giao thông cho vùng. Trong khu đô thị này cũng có 5 trường học khác.
Hiện tại, trong khu đô thị có hệ thống xe buýt Marguerite và các dịch vụ cung cấp phương tiện đi lại khác như cho thuê xe hơi, xe đạp… Khoảng 34% giảng viên và cán bộ của trường đi lại hàng ngày bằng phương tiện công cộng. Có 10 tuyến xe buýt của hệ thống Marguerite mở rộng cho người dân ngoài trường.
- Viện công nghệ Massachusetts – MIT (Mỹ)
Viện công nghệ Massachusetts (MIT) là Đại học danh tiếng luôn đứng trong danh sách 10 trường Đại học hàng đầu thế giới và xếp hạng nhất trong các trường Đại học ngành công nghệ thông tin của Mỹ. Sang năm 2010, Viện MIT đã vươn lên đứng đầu trong bảng xếp hạng các trường đại học thế giới.
Năm 1861, Cộng đồng bang Massachussets tán thành ý kiến thành lập “Học viện kĩ thuật Massachussets” bao gồm các ngành khoa học xã hội và tự nhiên, được đệ trình bởi nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng William Barton Rogers. Đây là bước quan trọng đầu tiên mà Rogers hi vọng sẽ thành lập một học viện độc lập thúc đẩy sự tăng trưởng cho nền công nghiệp của Mỹ. Được sự đồng ý của chính phủ, Rogers đã lập nên quỹ hỗ trợ phát triển chương trình giảng dạy, đánh giá, các cơ sở vật chất. Nỗ lực của ông bị đình trệ bởi cuộc nội chiến Mỹ, và cho đến năm 1865 những lớp học đầu tiên mới được mở tại khu Mercantile trung tâm Boston.
Toà nhà đầu tiên của MIT được hoàn thành ở Boston’s Back Bay năm 1866. Các năm kế tiếp, MIT đã gây dựng được danh tiếng của mình trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tuy vẫn còn trong thời kì khó khăn về tài chính. Đã có quan điểm cho rằng MIT nên liên kết với Đại học Harvard, một đại học có nguồn tài chính dồi dào nhưng yếu hơn về khoa học công nghệ để cùng phát triển. Vào những năm 1900, một đề nghị hợp tác với Harvard được đưa ra nhưng sau đó bị hoãn lại do sự phản đối của các cựu sinh viên MIT. Năm 1916, MIT chuyển sang khu vực Cambridge hiện tại.
Trong suốt lịch sử của mình, MIT luôn tập trung vào các phát minh trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Số liệu năm 1997 cho thấy tổng thu nhập do các công ty lập nên bởi MIT đứng hàng 24 trong nền kinh tế thế giới. Năm 2001, MIT triển khai dự án Open Course Ware đưa các học liệu mở lên mạng Internet. Cùng năm đó Chủ tịch trường là Charles Vest lần đầu tiên đã công nhận rằng, học viện của ông đang có hạn chế lớn đối với các sinh viên và nhà khoa học nữ, và ông cam kết sẽ có các chính sách thích hợp để cải thiện. Tháng 8 năm 2001, Susan Hockfield, nhà thần kinh học, là phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ chủ tịch của MIT. Bà chính thức đảm nhiệm chức vụ vào ngày 6 tháng 12 năm 2004 và là chủ tịch thứ 16 của MIT.
Tạp chí Atlantic năm 2004 xếp hạng MIT như là một trong những đại học khó vào nhất tại Mỹ. Theo đánh giá của US News và World Report’s thì MIT là 1 trong 5 trường luôn được xếp hạng cao nhất, cùng với Havard, Stanford, Yale và Princeton. Năm 2005, quỹ đóng góp của MIT cho nền kinh tế là 6.7 tỷ Đôla, xếp hạng thứ 6 tại Mỹ.
MIT được tổ chức thành 5 trường gồm 26 ngành học, bao gồm:
– Trường kiến trúc và Dự án: Kiến trúc; Nghệ thuật và Khoa học truyền thông; Nghiên cứu về thành thị và dự án.
– Trường kĩ thuật: Không gian và vũ trụ; Chuyên ngành kĩ thuật sinh học; Kĩ thuật hóa học; Môi trường và dân dụng; Điện học và khoa học máy tính, Kĩ thuật hệ thống; Kĩ thuật và khoa học vật liệu; Kĩ thuật cơ khí; Kĩ thuật nguyên tử.
– Trường nhân văn, nghệ thuật và khoa học xã hội:Nhân chủng học; Nghiên cứu truyền thông có tính cạnh tranh; Kinh tế; Ngôn ngữ và văn học; Lịch sử; Nhân văn; Ngôn ngữ và triết học; Văn học; Âm nhạc và Nghệ thuật sân khấu; Khoa học chính trị; Khoa học, Kĩ thuật và Xã hội; Nghiên cứu về con người; Báo chí.
– Trường quản lý Alfred P. Sloan.
– Trường khoa học: Sinh học; Khoa học về thần kinh và nhận thức; Hóa học; Trái đất, khí quyển, Khoa học về hành tinh; Toán; Vật lý.
Khác với hầu hết các trường đại học trên thế giới, tại MIT, số lượng sinh viên sau đại học nhiều hơn bậc đại học (chiếm khoảng 60% tổng số sinh viên). Nhiều chương trình cao học được xếp trong số 10 trường Đại học hàng đầu toàn nước Mỹ. Các sinh viên sau đại học của MIT có thể làm tiến sĩ, Thạc sĩ khoa học, Thạc sĩ kỹ thuật, Thạc sĩ kiến trúc, Thạc sĩ quản trị kinh doanh…